Hệ thống tưới và Hệ thống tưới phân

Sự phát triển của hệ thống tưới tiết kiệm nước và những bài học kinh nghiệm - Phần 4

Những bài học kinh nghiệm:
Công nghệ tưới tiết tiết kiệm nước đã được áp dụng thành công ở nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt là các nước có nền công nghiệp và nông nghiệp tiên tiến như Anh, Israel, Đức, Mỹ, Hunggary… Tại Việt nam, thực chất chúng ta đã đưa vào thử nghiệm từ những năm 1993, sau 15 năm nghiên cứu, ứng dụng chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định, nhưng các mô hình mới chỉ dừng lại ở bước khảo nghiệm mà chưa nhân rộng được ra đại trà.

Đi tìm câu trả lời cho vấn đề này, trong khuân khổ của đề tài đã đi tổng kết, đánh giá một số mô hình tưới tiết kiệm nước trong cả nước, bước đầu có những nhận định như sau :

 -    Đây là công nghệ có vốn đầu tư ban đầu cao và công tác quản lý, vận hành đòi hỏi phải có quy trình khép kín, đồng bộ, thích hợp với loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Trong khi đó trước đây chúng ta đưa vào thử nghiệm cho những diện tích quá nhỏ, cho những vùng không tập trung, cây trồng chưa được lựa chọn phù hợp. Mới đơn giản là xây dựng mô hình để kiểm nghiệm kỹ thuật tưới nước.
-   Các nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tưới tiết kiệm nước ở Việt nam mới chỉ là bước đầu, còn thiếu nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật trong thiết kế, chế tạo và thí nghiệm. Những sản phẩm chế tạo thử ở trong nước theo mẫu của nước ngoài còn khá thô sơ, chưa đạt được chỉ tiêu kỹ thuật quy định, độ bền thấp, không có những cải tiến cần thiết cho phù hợp với điều kiện cụ thể ở từng vùng.      
-    Thiết bị tưới như đường ống và một số linh kiện tưới như vòi phun mưa, đầu tưới nhỏ giọt, van áp lực vv chưa được tiêu chuẩn hoá và chưa có nhà máy chế tạo hàng loạt để hạ giá thành sản phẩm phù hợp với nền kinh tế trong nước, nông dân có điều kiện áp dụng.   
-     Một số thiết bị quan trọng của hệ thống như thiết bị lọc, thiết bị kiểm soát áp lực, kiểm soát độ ẩm trong đất vv, chưa có nghiên cứu để ứng dụng.
-     Xây dựng mô hình ứng dụng kỹ thuật tưới tiết kiệm nước không đồng bộ, không khép kín, có quy mô diện tích quá nhỏ ( 200 – 500 m2 ), thời gian theo dõi không dài, nên chưa đủ cơ sở để chuyển giao. Nhiều khi chỉ chú trọng đến trình diễn mô hình thiết bị công nghệ mà chưa chú trọng tới khả năng chuyển giao, nhân rộng mô hình, hiệu quả của mô hình.
-     Người dân chưa có ý thức sử dụng các thiết bị tiết kiệm nước, do chưa nhận thức đúng về sử dụng bền vững taì nguyên nước, chưa coi nước là hàng hoá, dùng nước phải trả tiền mà coi nước là tài nguyên trời cho nên dùng nước chưa có ý thức tiết kiệm. Vì vậy nhiều mô hình đặt tại những nơi có nguồn nước dồi dào sẽ không được người dân hưởng ứng.        
-    Đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, các loại cây có giá trị kinh tế cao chưa ổn định, dẫn đến tâm lý người dân ngại đầu tư thiết bị, đầu tư cây trồng có giá trị kinh tế cao.
-     Hiện tại còn thiếu các quy phạm, các chỉ dẫn trong quy hoạch, thiết kế và quản lý vận hành hệ thống tưới tiên tiến, tiết kiệm nước, nên khó phổ biến, nhân rộng mô hình.
      Tiềm năng sử dụng hệ thống tưới tiên tiến, tiết kiệm nước ở nước ta còn lớn, các diện tích vùng núi, vùng đất cát ven biển, nơi hay xảy ra các hiện tượng xói mòn đất, sa mạc hoá, hạn hán, lũ lụt. Đặc biệt miền Trung và Tây nguyên là vùng đất bị sa mạc hoá nhiều, cần được ứng dụng công nghệ tưới hiện đại, tiết kiệm nước để khai thác, hạn chế các bất lợi hay xảy ra cho các vùng đất này. Góp phần tích cực xoá đói giảm nghèo, cải thiện môi trường sinh thái hiệu quả nhất.
      Để khắc phục những vấn đề nêu trên, tạo điều kiện tốt phát triển kỹ thuật tưới hiện đại, tiết kiệm nước vào ứng dụng rộng rãi ở việt nam, chúng tôi có một số kiến nghị sau.
+   Tăng cường cơ sở, vật chất, trang thiết bị cho công tác nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, thí nghiệm các thiết bị của hệ thống tưới tiết kiệm nước.
+   Việt nam phải có nhà máy sản xuất đường ống, thiết bị của hệ thống tưới tiết kiệm nước, đảm bảo các tính năng kỹ thuật theo tiêu chuẩn Quốc tế và được chế tạo hàng loạt, hạ giá thành sản phẩm, giúp đẩy nhanh ứng dụng kỹ thuật trên vào thực tế sản xuất các cây có giá trị kinh tế cao.
+    Phải đưa ra các hướng dẫn, các quy phạm, tiêu chuẩn kỹ thuật trong công tác quy hoạch, thiết kế, trong công tác quản lý vận hành hệ thống làm cơ sở cho các tỉnh triển khai.
Nguồn: cwe
Ý kiến của bạn
Tên của bạn * :
E-mail * :
Tiêu đề * :
Nội dung * (Bạn vui lòng gõ tiếng việt có dấu):
 
Mã bảo mật * :   
   
Bài viết khác