Các biện pháp lai cải tạo giống

Các biện pháp lai cải tạo giống

Các biện pháp lai cải tạo giống

Các bài viết về ngành sữa

Ứng dụng sinh học phân tử trong chọn giống bò sữa

Việc kiểm tra đầy đủ bộ gen của một cá thể chỉ tốn khoảng 300-400 USD trong khi chi phí cho tiến trình kiểm tra qua đời sau của một bò đực giống tốn khoảng 40.000 USD. Đặc biệt đối với các tính trạng có hệ số di truyền thấp như: sức khỏe, khả năng sinh sản… việc chọn giống thông qua GEBV đã giúp cải thiện đáng kể hiệu quả chọn lọc

1. Ứng dụng của GEBV trong lai gần (Inbreeding)?

Vì GEBV có thể xác định sớm trên một con bò đực khi nó còn rất trẻ nên sẽ giúp tăng tỷ lệ (sử dụng) trong lai gần. Một chương trình nhân giống thường tập trung vào việc làm sao để có kiểu gen tốt nhất và sớm nhất.

Lai gần (Inbreeding) được hiểu là việc sử dụng một cặp lai có mối quan hệ di truyền gần (VD: Mẹ và con trai, Cha và con gái hay anh chị em với nhau) nhằm mục đích sớm loại bỏ những kiều gen bất lợi và cố định nhũng kiểu gen mong muốn.

Hệ số di truyền được sử dụng như thế nào trong các chương trình chọn giống bò sữa

Cách giải thích (tiếng Anh) của công thức này như sau: tiến bộ di truyền (DG) là sản phẩm của cường độ chọn lọc nhân với hệ số di truyền của tính trạng đó và độ lệch chuẩn kiểu hình của tính trạng. Vì vậy, chỉ cần một trong ba thành phần đó có giá trị thấp, tiến bộ di truyền thông qua sự chọn lọc sẽ rất chậm. Giá trị kinh tế của một tính trạng sau khi được cải thiện sẽ giúp giải thích rõ vai trò của sự chọn lọc. Như vậy HSDT giúp những người chọn giống quyết định tính trạng nào nên được cải thiện bằng cách chọn lọc (di truyền).

Phân tích mối quan hệ huyết thống trong quần thể bò bằng kỹ thuật Microsatellite

Lê Quang Nam, Nguyễn Trọng Bình, Trần Thị Thu Thủy, Nguyễn Văn Ba, Lê Anh Quỳnh, Phạm Doãn Lân

Phòng Thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ Tế bào Động vật

Bảng miêu tả bò HF

Theo thông lệ, bảng chấm điểm vật nuôi được chia thành hai phần:

Các tham số di truyền về các tính trạng năng suất sữa của bò Holstein

Việc nâng cao sản lượng sữa và sản lượng mỡ sữa là những mục tiêu giống quan trọng nhất của bò sữa. Ước lượng BLP dùng mô hình con vật của các tính trạng này, mà chương trình đó được đưa vào sử dụng hiện nay, dựa vào mô hình con vật có số liệu lặp lại. Mặc dầu có bộ số liệu lớn về sản lượng sữa và sản lượng mỡ sữa của bò Holstein

Những thành tựu công nghệ sinh học phục vụ nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam

Công Nghệ Sinh Học (CNSH) đã xâm nhập vào nhiều ngành kinh tế - kỹ thuật, đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp thực phẩm, y tế, môi trường. ở nước ta, CNSH đã và đang có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân, Đảng và Nhà nước đã sớm xác định CNSH là một trong 4 công nghệ ưu tiên phát triển. Chính phủ đã có Nghị quyết (NQ 18/CP năm 1994) về phát triển CNSH tới năm 2010. Cho đến nay, nhiều hướng về CNSH đã được triển khai và thu được những kết quả đáng kể.

Phân tích di truyền quần thể đàn bò sữa HF về các tính trạng sản xuất và không sản xuất bằng mô hình con vật nhiều tính trạng ở đàn bò sữa Israel

TÓM TẮT

Năng suất sữa, chất béo và Protein, lượng tế bào soma (Somatic cell score - SCS), và khả năng sinh sản con cái ở đàn bò sữa HF Israel đã được phân tích dùng mô hình con vật (Animal model- AM) nhiều tính trạng có lứa đẻ từ 1 đến 5 là các tính trạng riêng rẽ. Khả năng sinh sản con cái được đo lường là tỷ lệ của số lần dẫn tinh và thụ thai theo %. Các thành phần phương sai được ước lượng sử dụng cả Mô HìNH CON VậT lặp lại và MHCV nhiều tính trạng. Các hệ số di truyền phân tích nhiều tính trạng về các lứa đẻ riêng lớn hơn so với các hệ số di truyền từ MHCV lặp lại, và hệ số di truyền giảm xuống khi số lứa đẻ tăng lên. Hệ số di truyền cao hơn ở các tính trạng năng suất, thấp hơn ở tính trạng SCS và thấp nhất ở tính trạng khả năng sinh sản con cái (tỷ lệ thụ tinh). Tương quan di truyền cao hơn tương quan môi trương. Tương quan di truyền giữa hai lứa đẻ giảm xuống khi tăng mức độ sai khác về số lứa đẻ, nhưng tất cả đều cao hơn 0, 5. Tương quan môi trường cao hơn ở các tính trạng năng suất, thấp hơn đối với SCS, và gần đến 0 ở tính trạng tỷ lệ thụ tinh ở con cái. Trong phân tích quần thể đàn ghi chép sữa đầy đủ, khuynh hướng di truyền từ các mô hình lặp lại và nhiều tính trạng rất giống nhau. Khuynh hướng di truyền về SCS không có triển vọng về mặt kinh tế đến tận năm 1993 và có triển vọng từ sau đó. Khuynh hướng di truyền về tỷ lệ thụ tinh ở con cái có giá trị gần tới 0, nhưng khuynh hướng môi trường hàng năm là -0,2%. Mô hình chu kỳ sữa nhiều tính trạng là một cách dàn xếp hấp dẫn giữa các mô hình tiết sữa lặp lại, mà không giải thích khuynh hướng hoàn thiện qua các lứa đẻ, và các mô hình kiểm tra theo ngày, mà yêu cầu tính toán nhiều hơn nhiều.