Thức ăn, nước & thiết bị

Bã rượu nho giúp tăng sản lượng sữa bò

Các nhà nghiên cứu Australia cho biết cho bò sữa ăn bã rượu nho gồm hạt, vỏ nho và cuống quả nho sẽ làm tăng sản lượng sữa bò và giảm lượng khí thải mê-tan của ngành chăn nuôi bò sữa.

Nghiên cứu về thức ăn và nuôi dưỡng

Các kết quả nghiên cứu đã công bố về thức ăn, dinh dưỡng và nuôi dưỡng bê con, bò sữa ít hơn so với các nghiên cứu về lai tạo giống và đánh giá năng suất các nhóm giống. Trong lĩnh vực nghiên cứu về đánh giá giá trị dinh dưỡng thức ăn, đã phân tích hầu hết các loại thức ăn cho trâu bò ở cả 2 miền Nam, Bắc theo phương pháp Weende và phương pháp phân tích cấu trúc tế bào thực vật của Van Soest. Xác định tỷ lệ tiêu hoá thức ăn theo phương pháp enzyme cellulose và trên cừu. Đã xác định giá trị năng lượng ME theo hệ thống ARC- Anh (Đinh Văn Cải và ctv, 2002) và giá trị năng lượng UFL theo hệ thống INRA- Pháp (Vũ Chí Cương, 2002). Xây dựng bảng Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng thức ăn cho trâu bò phục vụ cho xây dựng khẩu phần ăn khoa học và chính xác hơn.

Ảnh hưởng của việc cho ăn thức ăn thô xanh hỗn hợp tới sản xuất sữa của bò

Nghiên cứu này được thực hiện để so sánh mức tiêu thụ thức ăn, mức sử dụng dinh dưỡng và sản xuất sữa của bò sữa được ăn thức ăn thô xanh hỗn hợp.

Thức ăn cho bò sữa

Bò sữa là loại động vật nhai lại, có dạ dày bốn túi, có khả năng tiêu hoá và sử dụng nhiều loại thức ăn. Nhìn chung, thức ăn dùng nuôi bò sữa đều rẻ tiền, dễ kiếm, đa dạng hơn so với thức ăn nuôi lợn và gia cầm.

Thức ăn thô xanh chất lượng cao

Bò sữa là gia súc thuộc loài động vật nhai lại có dạ dày chia làm 4 túi (bốn ngăn). Dạ cỏ có dung tích lớn và có rất nhiều vi sinh vật, chính điều này đã tạo ra sự khác biệt căn bản giữa động vật nhai lại và động vật dạ dày đơn. Vi sinh vật dạ cỏ thực hiện hai chức năng quan trọng:

Sản xuất thức ăn thô xanh cho bò sữa vào mùa đông: GIẢI PHÁP NÀO?

Khi hỏi các hộ chăn nuôi về thức ăn thô xanh cho bò sữa, họ nói ngay “đó là cỏ Voi”. Lượng thức ăn thô xanh có đủ cho bò không?, các hộ đều cho rằng “thừa và thoả mãn nhu cầu của bò” vì trong máng “bò ăn không hết”. Quan niệm đó đã gắn bó với người chăn nuôi bò sữa Việt Nam hàng chục năm nay. Tuy nhiên, cỏ voi chỉ phù hợp trong giai đoạn trước đây, khi mà chăn nuôi bò trở thành một hướng để chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và phục vụ nhu cầu tiêu dùng nhỏ. Ngày nay khi chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam trở thành ngành sản xuất hàng hóa thật sự, phải cạnh tranh với các nước trên thế giới, thì cỏ voi đã không thể đáp ứng yêu cầu.

ẢNH HƯỞNG CỦA STRESS NHIỆT LÊN SINH LÝ - SINH SẢN BÒ LAI HƯỚNG SỮA (HF) VÀ BÒ HÀ LAN THUẦN NHẬP NỘI NUÔI TẠI KHU VỰC PHÍA NAM P2

3.2. Ảnh hưởng của môi trường đến một số chỉ tiêu sinh lý của bò sữa

Sự thay đổi nhiệt độ, ẩm độ và THI của môi trường như bảng 1 và 2 thì các chỉ tiêu sinh lí như nhịp thở, nhịp tim và thân nhiệt của bò tương ứng cũng có sự khác nhau theo giờ và theo nhóm giống.

ẢNH HƯỞNG CỦA STRESS NHIỆT LÊN SINH LÝ - SINH SẢN BÒ LAI HƯỚNG SỮA (HF) VÀ BÒ HÀ LAN THUẦN NHẬP NỘI NUÔI TẠI KHU VỰC PHÍA NAM - P1

Khu vực thành phố Hồ Chí minh có nhiệt độ trung bình năm 28,3 độ C và ẩm độ 73,3%, giá trị THI (Temperature Humidity Index) trung bình đạt 79,3, cao nhất là 93,76%. Khả năng chống chịu nóng ẩm bò F1>F2>F3>HF thuần. Khi THI chuồng nuôi từ 82 trở lên các nhóm bò thuần HF và bò lai HF năng suất cao (>= 15kg/ngày) thể hiện dấu hiệu stress nhiệt rất rõ. Giải pháp đơn giản khắc phục tress nhiệt là thiết kế chuồng nuôi thông thóang và sử dụng quạt gió công suất cao để làm mát cho bò. Phun nước vào chuồng sẽ làm tăng thêm ẩm độ vì vậy không làm giảm THI chuồng nuôi.

Ảnh hưởng nhiệt độ môi trường đối với bò cái vắt sữa

Đàn bò lang trắng đen nhập nội trước đây nuôi ở vùng Trung du Ba Vì vô cùng khó khăn, chỉ sau khi chuyển đàn bò đó lên Mộc Châu tình hình mới dần dần đi vào ổn định. Khí hậu Mộc Châu mát mẻ, với khí hậu đó có thể bò không bị stress nóng, và cũng vì vậy từ đó vấn để ảnh hưởng nhiệt độ môi trường đối với bò cái vắt sữa ít được đưa ra bàn luận.

Chăm sóc bò sữa bị stress nhiệt

Bò ở Manitoba phải trải qua cả stress nóng và stress lạnh theo từng đợt của thời tiết trong năm. Trong những tháng mùa đông, stress lạnh xuất hiện do cả nhiệt độ và gió gây ra. ở những tháng mùa hè, stress nóng xuất hiện do chỉ số nhiệt độ - độ ẩm (THI), một hỗn hợp gồm cả yếu tố nhiệt độ và độ ẩm gây ra. Ví dụ: THI của một ngày có nhiệt độ là 240C và độ ẩm 85% là 74. Một ngày khác có nhiệt độ 290C với độ ẩm 15% thì chỉ số THI là 72. Khi chỉ số THI vượt quá 72 bò sẽ bị stress nóng. Do vấy có thể đánh giá rằng bò ở miền Tây Canada trải qua stress nóng ở nhiều mức độ khác nhau trong 40% tổng số ngày hè.