Kinh tế - Thị trường

Sản lượng sữa tươi nguyên liệu của các 'ông lớn' chỉ đáp ứng 35% nhu cầu thị trường

Chăn nuôi bò sữa khá vất vả, vì vậy nhiều người dân không mặn mà. Có thời điểm giá thức ăn, con giống tăng cao, chưa tính chi phí xây chuồng trại, hệ thống làm mát… đã ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế.

 Tại hội thảo cơ hội và thách thức đối với chăn nuôi bò sữa, bò thịt ở Việt Nam 18/10, ông Hồ Mộng Hải, Phó phòng Cục chăn nuôi gia súc phía nam cho biết ngành chăn nuôi bò hiện nay của Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thịt và sữa cho hơn 90 triệu người dân.


Người chăn nuôi bò sữa vẫn còn ít kinh nghiệm nên chăn nuôi còn nhiều khó khăn, năng suất thấp và chất lượng sữa chưa cao. Mặt khác, một số công ty lớn như TH True Milk, Vinamilk, Mộc Châu... mặc dù có sự đầu tư lớn cho bò sữa, sản lượng sữa tươi nguyên liệu cũng mới chỉ đáp ứng 35% nhu cầu thị trường.
Ông Hải cho biết, một số tỉnh, thành phố có số lượng bò sữa lớn như: TP HCM, Nghệ An, Sơn La, Lâm Đồng, Hà Nội… chủ yếu vẫn ở quy mô nhỏ, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nông dân, quy trình chăn nuôi chưa khép kín, khiến các hộ nuôi cá thể gặp nhiều khó khăn.

 

Theo ông Hải, chăn nuôi bò sữa khá vất vả, vì vậy nhiều người không mặn mà. Có thời điểm giá thức ăn, con giống tăng cao, chưa tính chi phí xây chuồng trại, hệ thống làm mát… đã ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế. Đó là chưa kể vào mùa đông, do nhu cầu giảm, doanh nghiệp hạn chế thu mua sữa, rồi có khi còn thanh toán chậm khiến chúng tôi phải chật vật tìm “đầu ra”, gặp khó khăn trong tái đầu tư mở rộng sản xuất.

 

Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với sữa nguyên liệu nhập khẩu từ nhiều nước, hiện các công ty chế biến sữa áp dụng nghiêm ngặt các chỉ tiêu kỹ thuật, do đó khâu kiểm tra chất lượng phụ thuộc vào các trạm thu gom, nhưng khi có phát sinh, hộ chăn nuôi phải tự xử lý, thêm tốn kém.

 

Ông Hải liệt kê có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên như quy hoạch phát triển chăn nuôi bò sữa thực hiện còn chậm; hệ thống giống bò quốc gia chưa hình thành; diện tích đất canh tác để trồng cỏ cho bò sữa còn ít (170 nghìn ha); việc chế biến thức ăn thô xanh và phụ phẩm nông, công nghiệp cho bò sữa còn hạn chế; chưa thiết lập được hệ thống về kiểm soát chất lượng sữa tươi nguyên liệu và sữa thành phẩm; thiếu công nghệ bảo quản và chế biến sữa ở cả nông hộ và trang trại…

Nguồn: Sưu tầm
Ý kiến của bạn
Tên của bạn * :
E-mail * :
Tiêu đề * :
Nội dung * (Bạn vui lòng gõ tiếng việt có dấu):
 
Mã bảo mật * :   
   
Bài viết khác